CELLCHAIN LIPITRIX

Thuật ngữ “tăng huyết áp ác tính” đi vào từ điển y học năm 1928 vì những bệnh nhân mắc bệnh này vào thời điểm đó có tiên lượng tương tự với nhiều bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, việc sử dụng liệu pháp hạ huyết áp có thể cải thiện kết quả một cách nhanh chóng và an toàn.

1. Định nghĩa về tăng huyết áp nặng

Hầu hết bệnh nhân bị tăng huyết áp nặng (huyết áp tâm thu 180 và / hoặc huyết áp tâm trương 120 mmHg) không có tổn thương cơ quan cuối cấp tính (còn gọi là tăng huyết áp nặng không triệu chứng hoặc tăng huyết áp cấp cứu).

Ngược lại, một số bệnh nhân tăng huyết áp nặng có các dấu hiệu hoặc triệu chứng của tổn thương cơ quan nội tạng cấp tính. Những bệnh nhân như vậy có trường hợp cấp cứu tăng huyết áp. Bệnh nhân có hoặc không bị tăng huyết áp trước đó có thể bị tăng huyết áp nặng. Ở người trẻ (<60 tuổi), huyết áp tâm trương thường là 120 mmHg, nhưng không có ngưỡng cụ thể vì bệnh nhân tăng huyết áp nặng có thể gặp các triệu chứng nếu huyết áp trước đó bình thường. (Ví dụ phụ nữ có thai bị sản giật hoặc bệnh nhân trẻ bị viêm cầu thận cấp).

2. Chẩn đoán nguyên nhân tăng huyết áp

Triệu chứng: Tiền sử bệnh và khám sức khỏe của bệnh nhân tăng huyết áp nặng có thể giúp chúng ta tìm ra nguyên nhân:

Chấn thương hoặc chấn thương đầu cấp tính.

Các triệu chứng của hệ thần kinh, chẳng hạn như kích động, mê sảng, chóng mặt, co giật hoặc rối loạn thị giác.

Các triệu chứng thần kinh khu trú có thể do đột quỵ do thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết.

Xuất huyết não là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp

Xuất huyết não là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp

Xuất huyết não.

Buồn nôn và nôn, có thể là dấu hiệu của tăng áp lực nội sọ.

Đau ngực, có thể do thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc do bóc tách động mạch chủ.

Đau lưng cấp tính, dữ dội có thể do bóc tách động mạch chủ.

Khó thở, có thể do phù phổi.

Tiền sản giật hoặc sản giật có thể xảy ra ở những bệnh nhân có thai bị tăng huyết áp nặng.

Sử dụng các loại thuốc có thể gây ra trạng thái hyperadrenergic, chẳng hạn như cocaine, amphetamine, phencyclidine, hoặc chất ức chế monoamine oxidase, hoặc ngừng sử dụng clonidine và các thuốc hạ huyết áp khác gần đây hoặc ít thường xuyên hơn.

Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm: Ngoài ra, cần thực hiện các xét nghiệm sau để đánh giá xem có tổn thương cơ quan đích hay không:

Điện tâm đồ

Chụp X quang ngực thông thường

Phân tích nước tiểu

Chất điện giải trong huyết thanh và creatinine huyết thanh

Dấu ấn sinh học tim (nếu nghi ngờ hội chứng mạch vành cấp)

Chụp cắt lớp vi tính não (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) (nếu chấn thương đầu, các triệu chứng thần kinh, bệnh võng mạc tăng huyết áp, buồn nôn hoặc nôn)

CT hoặc MRI hỗ trợ siêu âm qua lồng ngực hoặc qua thực quản (nếu nghi ngờ bóc tách động mạch chủ).

Thường dễ nhất để phân loại các trường hợp tăng huyết áp nặng do các cơ quan đích bị tổn thương (ví dụ, não, tim, thận). Dựa vào tổn thương cơ quan đích sẽ giúp chúng ta xác định được các chỉ số huyết áp mục tiêu cần đạt và tốc độ đạt huyết áp mục tiêu.

Địa chỉ văn phòng: 263/4 Nguyễn Văn Đậu, Phường 11, Quận Bình Thạnh, TPHCM.

Điện thoại: 0901 33 76 76

Email: lipitrix@gmail.com

Website: lipitrix.com

SẢN PHẨM ĐÃ XEM

    Chưa xem sản phẩm nào
090 138 22 33